Cây Vú Bò (Vú Chó) có tên khoa học là Ficus heterophyllus L., được chứng minh tác dụng lợi đờm, bình suyễn, chữa sa tử cung, đau tinh hoàn,…Bài viết dưới đây, Thuốc Gia Đình sẽ giới thiệu đến bạn đọc những thông tin cần thiết về cây Vú Bò
1 Giới thiệu về cây Vú Bò
Tên khác: Vú Chó, Sung Ba Thùy, Óc Chó.
Tên khoa học: Ficus heterophyllus L.
Học thực vật: họ Dâu tằm Moraceae.
1.1 Đặc điểm thực vật
Dưới đây là một số hình ảnh của cây Vú Bò:
Vú Bò thuộc dạng cây nhỏ, độ cao tầm 1-2 mét.
Những ngọn non có lông che phủ.
Thân ít chia cành, lông dày.
Lá Vú Bò mọc so le, lá thường tập trung ở ngọn thân. Là có hình bầu dục, gốc lá tròn hoặc có hình tim, đầu lá nhọn, thuôn dài, mỗi lá chia 3-5 thùy (thường là 3 thùy). Mặt dưới lá có lông nhỏ, mép lá khía răng, gân gốc 3.
Cuống lá có lông dày, cứng.
Lá kèm có hình ngọn giáo.
Cụm hoa thường mọc ở kẽ lá, gồm cả hoa đực và hoa cái. Hoa cái có cuống, hoa đực không có cuống.
Hoa đực có 4 lá đài, dính nhau ở gốc, nhị 2.
Hoa cái có 4 lá đài, bầu hình trái xoan.
Quả phức, hình cầu.
Mùa ra quả từ tháng 9 đến tháng 12.
1.2 Thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: Rễ.
Rễ được thu hái quanh năm, phơi khô, dùng sống hoặc tẩm mật, sao.
Rễ có mùi thơm đặc trưng.
1.3 Đặc điểm phân bố
Cây Vú Bò phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới của Châu Á, có thể tìm thấy ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Campuchia, Indonesia, Việt Nam, Lào.
Tại nước ta, cây Vú Bò có thể tìm thấy ở nhiều tỉnh thành khác nhau, chạy dọc theo các tỉnh có vùng núi thấp (dưới 600m) đến các vùng trung du và đồng bằng.
Vú Bò thường mọc cùng với cây bụi ở các ven rừng, ven đồi.
Vú Bò là cây có bản chất ưa sáng, chịu được khô hạn, quả ra ít và là nguồn thực ăn của động vật gặm nhấm.
Ở các tỉnh phía Nam, quả thường ra vào cuối mùa khô.
Ở các tỉnh phía Bắc, mùa hoa quả thường là cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu.
2 Thành phần hóa học
Một số thành phần hóa học trong cây Vú Bò có thể kể đến bao gồm:
- Acid hữu cơ.
- Acid amin.
- Alcaloid.
- Coumarin.
3 Tác dụng – Công dụng
3.1 Tác dụng dược lý
Nước sắc rễ Vú Bò được chứng minh có tác dụng lợi đờm, bình suyễn khi nghiên cứu trên động vật thí nghiệm.
Cao lỏng chiết bằng cồn 70 độ từ rễ cây Vú Bò cũng có tác dụng tương tự.
Thành phần alcaloid được chiết xuất từ cây không có tác dụng dược lý.
Khi tiến hành thí nghiệm gây co thắt khí phế quản trên chuột lang bằng phương pháp phun histamin, nước sắc rễ Vú Bò các tác dụng làm giảm triệu chứng của động vật thí nghiệm khi được tiêm theo đường xoang bụng.
Các thành phần khác tan và không tan trong nước của cao lỏng Vú Bò khi được chiết xuất bằng cồn 70 độ cũng có tác dụng tương tự.
Tuy nhiên, dạng chiết bằng alcaloid và chloroform thì không có tác dụng này.
Tác dụng giảm ho chưa thể hiện rõ rệt khi nghiên cứu trên chuột nhắt gây ho bằng phương pháp phun xông amoniac.
3.2 Công dụng theo Y học cổ truyền
3.2.1 Tính vị, tác dụng
Tính vị: Rễ có vị ngọt, đắng nhẹ, tính bình.
Công dụng: Trừ phong thấp, tiêu thũng, tráng gân cốt, sinh tân, khử ứ.
3.2.2 Cây Vú Bò ngâm rượu có tác dụng gì?
Theo Y học cổ truyền, Tuệ Tĩnh đã sử dụng Nhựa lấy từ rễ của cây Vú Bò, trộn với bột nghệ vàng để làm thuốc sử dụng trong các trường hợp đầy bụng, chướng hơi, táo bón.
Lá và quả Vú Bò sau khi rửa sạch, giã nát, chưng với rượu có tác dụng trị máu bầm trong các trường hợp ngã hoặc chấn thương.
Người dân Trung Quốc thường sử dụng rễ Vú Bò để chữa vết thương, phù thũng, lao thương với liều 15-30g mỗi ngày, có thể sắc lấy nước uống hoặc ngâm cùng rượu.
4 Một số cách trị bệnh từ cây Vú Bò
4.1 Chữa dạ dày sa đau, viêm tinh hoàn, lòi dom, sa tử cung
Chuẩn bị:
- 30g Vú Bò.
- 12g Tô mộc.
- 12g Hồi Đầu.
- 12g Ngưu Tất.
- 12g Mộc Thông.
Sắc nước uống.
4.2 Chữa bế kinh, sau khi đẻ ứ huyết đau bụng
30-60g rễ Vú Bò, sắc nước rồi thêm ít rượu uống.
4.3 Cách ngâm rượu cây Vú Bò chữa đau phong thấp
60g rễ Vú Bò.
250g móng giò lợn.
60g rượu.
Thêm nước và sắc cho đến khi còn nửa bát, lượng này sẽ chia làm 2 lần, uống trong ngày, mỗi lần uống cách nhau từ 4-6 tiếng.
5 Tài liệu tham khảo
Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam (Xuất bản năm 2004), tác giả Đỗ Tất Lợi. Cây Vú Bò, trang 915, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2024.