Thục quỳ được sử dụng rộng rãi bởi công dụng thanh nhiệt, lợi niệu, nhuận tràng. Vậy, vị thuốc này có tác dụng gì? Và sử dụng Thục quỳ thế nào mang lại hiệu quả tối ưu nhất? Mời quý bạn đọc tìm hiểu trong bài viết sau đây.
1 Giới thiệu về cây Thục quỳ
Thục Quỳ có tên khoa học là Althaea rosea (L.) Cav. (Alcea rosea L.), thuộc họ Bông (Malvaceae). Cây ưa ẩm và ưa khí hậu mát lạnh ở vùng núi cao.
1.1 Đặc điểm thực vật
Cây thân thảo sống hai năm; thân thẳng, mập, mọc thẳng đứng, có lông, cao 2-3m. Lá mọc so le, dạng tim, chia 5-7 thuỳ, đường kính 7,5-12,5cm, rộng tới 30cm, đầu tù hơi nhọn, mép có răng cưa; cuống lá dài.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành chùm. Lá bắc rộng, thường xẻ đôi. Hoa có cuống ngắn, to, rộng 10-20cm, trắng, hồng, đỏ, thường xếp từng đôi; lá đài phụ 5-8 có lông trắng; đài cao 2-3cm; nhị nhiều dính trên một cột ngắn, bầu 15-45 ô, mỗi ô chứa 1 noãn. Quả nằm trong đài, các phân quả không mở. Trồng 2 năm thì có thể thu hoạch dược liệu; nhưng trồng ở đồng bằng thì chỉ cần 8 – 10 tháng. Ra hoa kết quả từ tháng 8 đến tháng 11.
1.2 Thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: Hoa, hạt, rễ, lá.
Thu hái hoa vào mùa hè, phơi khô trong râm, để dùng. Hạt thu hái vào mùa hè, phơi khô. Rễ thu hái vào mùa thu đông, rửa sạch, phơi khô.
1.3 Đặc điểm phân bố
Thục quỳ có nguồn gốc ôn đới, được trồng nhiều ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Ấn Độ, được di thực vào các tỉnh phía Bắc của Việt Nam như Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Lâm Đồng.
2 Thành phần hóa học
2.1 Hoa Thục quỳ
Hoa chứa chất nhầy, tinh bột và tanin. Chúng tạo ra một loại flavonoid, altheanin (aromadendrin-3-glucoside, 0,06%) và một loại thuốc nhuộm anthocyanin (althaein). Phần màu tím của hoa chứa xyanua, Glucose và rhamnose, trong khi phần màu vàng có quercetin, kaempferol, isoquercitrin và kaempferol-3-glucoside. Bên cạnh kaemferol, hoa màu hồng và cam có chứa herbacin, màu hoa cà và màu đỏ chứa quercetin; trắng và vàng có chứa herbactin và một sắc tố không xác định. Giống màu vàng rất giàu anthoxanthin và chứa herbactin là sắc tố chính. Nudiflorin, được xác định là apigenin-7-ß-(6-ß-L-rhamnfuranosido)-D-glucofuranosid, được phân lập từ hoa.
2.2 Hạt
Hạt chứa dầu khô (9-13%, gốc khô). Axit linoleic là thành phần chính của dầu. Protein (3,9%), rượu isobutyl, Limonene, phellandrene, ptolualdehyde, citral, terpeneol, p-sitosterol, ngoài ra còn có glucose, mannose và Lactose. Chiết xuất lipid của hạt chứa hydrocarbon, axit, este, glyceride và rượu. Phần cơ bản của dịch chiết cho phản ứng dương tính với alkaloid.
2.3 Rễ
Rễ có chứa chất nhầy polysacarit (galacturonorhamnans, arabinans, glucans, arabinogalactans, carbohydrate), Flavonoid glycoside (kaempferol, quercetin), coumarin, caffeic, Canxi oxalat, chất béo và sterol.
2.4 Bộ phận khác
Các loại trái cây và lá chứa rượu bậc 1, cyclohexanol, limonene, phellandrene và ß-sitosterol, bên cạnh sucrose, glucose, galactose và mannose. Lá cũng chứa p-tolualdehyde và a-terpenyl axetat. Vỏ và lõi của thân cây lần lượt chứa 1,8-2,0 và 12,0% polysacarit; phần cùi cũng chứa 1,0-1,3% tinh bột. Dioxane lignin (polydisperse trọng lượng thấp) cũng có mặt.
3 Tác dụng – Công dụng của cây Thục quỳ
3.1 Tác dụng dược lý
3.1.1 Giảm đường huyết, mỡ máu
Chiết xuất Ethanolic của hoa thục quỳ (HFE) được phát hiện là làm giảm đáng kể nồng độ triglyceride và glucose huyết thanh ở chuột KK-A(y) sau khi uống trong 8 tuần. Trong khi đó, các biểu hiện gen trên AMPK, IRS2, PI3K, AKT và GLUT4 ở gan được điều chỉnh tăng đáng kể.
3.1.2 Ảnh hưởng tới sinh dục
Dịch chiết nước từ hoa thục quỳ gây ra những thay đổi chuyển hóa yếu ở tinh hoàn chuột. Sau khi sử dụng chiết xuất thục quỳ, cả ở phần tinh hoàn và tế bào Leydig nuôi cấy, khả năng phản ứng miễn dịch đối với aromatase và thụ thể estrogen beta yếu hơn khi so sánh với các biện pháp kiểm soát, trong khi cường độ phản ứng miễn dịch đối với thụ thể estrogen alpha vẫn không thay đổi.
3.1.3 Chống viêm, giảm đau
Các hoạt động giảm đau và chống viêm của chiết xuất etanol của hoa đã được chứng minh bằng sự ức chế đáng kể hiện tượng búng đuôi do nhiệt gây ra ở chuột, thông qua việc xoắn chuột do axit axetic, phù nề ở chân chuột do carrageenin hoặc dextran gây ra.
3.1.4 Hạ huyết áp
Chiết xuất cồn của hoa cho thấy tác dụng hạ huyết áp thoáng qua trên mèo gây mê và nó ức chế sự kết tập tiểu cầu do ADP gây ra và sự hình thành huyết khối thực nghiệm. Hơn nữa, chất chiết xuất làm tăng dòng chảy của động mạch vành của tim chuột lang bị cô lập và làm giãn rõ rệt các mạch máu ở các chi sau của chuột.
3.1.5 Kháng khuẩn
Hoạt tính kháng khuẩn của dịch chiết etanolic của lá và hoa cho thấy tác dụng ức chế ở nồng độ 0,20 g/mL đối với một số vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Chiết xuất metanol, n-hexan, etanol, etyl axetat và nước của hoa Thục quỳ đã được chứng minh có hoạt tính kháng khuẩn, chống lại vi khuẩn Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Staphylococcus epidermidis, Salmonella thyphimurium, Enterobacter cloacae, Enterococcus faecalis, Pseudomonas aeroginosa và nấm men như nấm Candida albicans.
3.1.6 Chống sỏi niệu, sỏi thận
Chiết xuất cồn của rễ làm giảm đáng kể số lượng canxi oxalat lắng đọng ở thận trong sỏi thận do ethylene glycol gây ra ở chuột khi so sánh với nhóm ethylene glycol trong cả phác đồ phòng ngừa và điều trị. Hơn nữa, sử dụng chiết xuất Thục quỳ làm giảm lượng oxalate trong nước tiểu tăng cao do ethylene glycol.
3.2 Công dụng theo y học cổ truyền
Tính vị, tác dụng: Thục quỳ có vị ngọt, hoa có thêm vị mặn, tính hàn. Hoa có tác dụng lợi niệu nhuận táo, hoạt huyết điều kinh, tán ung thũng, giải độc. Hạt lợi niệu thông lâm, thông đại tiện và giúp hạ nhiệt. Rễ có tác dụng thanh nhiệt giải độc, thu liễm chỉ lỵ, bài nùng, lợi niệu.
Trong đông y, hoa được dùng trị đại tiểu tiện không thông suốt, rối loạn kinh nguyệt, bạch đới, ong và bò cạp đốt, bỏng lửa. Hạt dùng trị thuỷ thũng, đại tiểu tiện không thông suốt, sỏi niệu đạo. Rễ dùng trị dao chém, bỏng, lỵ; viêm ruột, cảm nhiễm niệu đạo, nước tiểu đỏ, viêm cổ tử cung, bạch đới. Ở Ấn Độ, hạt được dùng trị sốt, rễ dùng trị lỵ và hoa dùng trị thấp khớp. Hoa lá dùng ngoài trị ung thũng sang dương, bỏng và cháy.
4 Cách dùng và bài thuốc từ Thục quỳ
4.1 Cách dùng
Liều dùng:
- Hoa 12g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài tuỳ lượng, tán bột rắc, đắp.
- Cành lá, cây con 12-36g khô, tươi dùng lượng gấp đôi, sắc uống.
- Hạt 3-6g, sắc hoặc nghiền thành bột uống.
- Rễ nhuận tràng với liều 12g, và tẩy là 60g, sắc uống.
4.2 Bài thuốc
4.2.1 Chữa thủy đậu, giời leo, mụn rộp
Nguyên liệu: Cành lá Thục quỳ 12g khô (30g tươi), Diếp Cá tươi 50g.
Cách làm: Sắc uống hàng ngày thay trà. Đồng thời lấy 2 thứ trên với lượng như nhau, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước, thoa khắp các vùng bị thương tổn. Ngày 4-6 lần.
4.2.2 Chữa ho, viêm họng, cảm cúm, sởi
Nguyên liệu: Hoa, lá Thục quỳ, diếp cá, Kim Ngân Hoa, mỗi vị 12g khô (hoặc 30g tươi), 3 lát Gừng.
Cách làm: Sắc uống hàng ngày, dùng 3-5 ngày.
4.2.3 Chữa u ruột, chảy máu, đau bụng lạnh, đi ngoài ra máu
Nguyên liệu: Rễ Thục quỳ, Bạch Chỉ mỗi vị 30g, phèn phi, Bạch Thược mỗi vị 15g.
Cách làm: Sấy khô, tán bột mịn, trộn đều làm viên hoàn có đường kính khoảng 1cm. Mỗi lần uống 20 viên với nước cơm khi đói, ngày uống 3 lần cho tới khi bệnh thuyên giảm.
4.2.4 Chữa bệnh đường hô hấp
Nguyên liệu: Lá Thục quỳ, hoa cúc mẫu mỗi vị 20g, Hạt Lanh 40g.
Cách làm: Sắc nước uống, có thể thêm Mật Ong, 3 lần mỗi ngày, uống càng nóng càng tốt.
Hoặc: Lá Thục quỳ, lá cẩm quỳ, cây nhân hương (hoặc lá cửu lý hương hay cây cỏ đậu vàng) mỗi vị 20g.
Cách làm: Sắc nước uống, 2-3 cốc mỗi ngày.
4.2.5 Chữa tiểu đỏ
Nguyên liệu: Hạt thục quỳ 5g, Rau Má 20g, Râu Ngô 15g, bạch mao căn 10g.
Cách làm: Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần trong ngày, dùng trong 5 ngày.
4.2.6 Chữa trị sỏi niệu đạo
Nguyên liệu: Hạt thục quỳ 8g, Kim tiền thảo 15g, bạch mao căn 10g, Mã Đề 5g.
Cách làm: Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần uống trong ngày, mỗi đợt dùng 10 ngày, tổng dùng 3 đợt.
4.2.7 Chữa bệnh khác
Trị họng viêm sưng đau: Dùng 2 thìa rễ Thục quỳ khô hòa với 1 cốc nước sôi trong 10 phút, gạn nước uống như trà, mỗi ngày dùng 3-5 cốc.
Chữa viêm ruột, cảm nhiễm niệu đạo, đái đỏ, viêm cổ tử cung, bạch đới: Rễ thục quỳ 12g, sắc lấy nước uống 3 lần trong ngày.
Trị đại tiện không thông: Hạt thục quỳ 12g, sắc ngày 1 thang, chia 3 lần uống.
Trị vết bỏng: Hoa và lá thục quỳ, lấy lượng vừa đủ giã nát đắp vào nơi bị bỏng ngày thay 1lần.
5 Tài liệu tham khảo
1. Từ điển Cây thuốc Việt Nam Tập 2, tác giả Võ Văn Chi, Nhà xuất bản y học (Xuất bản năm 2021). Thục quỳ trang 933, Từ điển Cây thuốc Việt Nam Tập 2. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.
2. Tác giả Nazeem Fahamiya1*, Mohamed Shiffa1, Mohd. Aslam (Ngày đăng 30 tháng 11 năm 2016). A comprehensive review on Althaea rosea Linn., Research Gate. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2023.