Thạch nhũ được biết đến là dược chất dùng trong điều trị các bệnh về mắt, hen phế quản, tăng cường chức năng của nam giới. Trong bài viết này, Thuốc Gia Đình xin gửi đến bạn đọc những thông tin chi tiết về Thạch Nhũ.
1 Giới thiệu về Thạch nhũ
Thạch nhũ, còn có tên gọi là nhũ thạch, là tên gọi của một loại đá canxi cacbonat thiên nhiên ở trạng thái nhũ đá. Tương truyền, loại thạch nhũ màu trắng trong, hình dạng như ống lông ngỗng, cho nên còn được gọi là đá lông ngỗng.
1.1 Nguồn gốc và quá trình hình thành
Quá trình hình thành nhũ đá thường phải mất hàng chục nghìn hoặc hàng trăm nghìn năm. Do thời gian hình thành lâu dài nên nhũ đá có giá trị nghiên cứu quan trọng cho các cuộc điều tra địa chất cổ đại. Trong đá vôi , nước chứa carbon dioxide thấm vào các vết nứt của đá vôi và phản ứng với canxi cacbonat tạo thành canxi bicarbonate hòa tan trong nước.Khi nước có canxi bicarbonate hòa tan nhỏ giọt từ mái hang, nó sẽ phân hủy tạo ra canxi cacbonat và carbon dioxide., Nước. Canxi bicarbonate hòa tan trở lại trạng thái rắn (gọi là đông đặc). Những khối phát triển dần dần từ trên xuống dưới được gọi là “nhũ đá”.
Nhũ đá được hình thành từ sự lắng đọng canxi cacbonat và các khoáng chất khác.
Đá vôi là một loại đá canxi cacbonat phân hủy bởi nước có chứa carbon dioxide để tạo ra dung dịch canxi bicarbonate. Dung dịch nước chảy xuống đá cho đến khi chạm tới mép. Nếu tảng đá ở trên miệng hang thì nước sẽ chảy xuống. Khi dung dịch tiếp xúc với không khí sẽ xảy ra phản ứng hóa học ngược và canxi cacbonat bị kết tủa.
Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của nhũ đá là 0,13 mm. Dung dịch nước của nhũ đá phát triển nhanh thường giàu canxi cacbonat và carbon dioxide , chảy rất nhanh, những nhũ đá như vậy có thể phát triển tới 3mm mỗi năm.
1.2 Đặc điểm dược chất
Dược chất là một khối tổng hợp giống như thạch nhữ, hơi hình nón hoặc hình trụ. Bề mặt có màu trắng, trắng nhạt hoặc nâu, xù xì và không đồng đều. Nó nặng, cứng, mặt cắt nhẵn, màu trắng, khi quan sát dưới ánh đèn có ánh sáng giống như ngôi sao, thường có một lỗ tròn ở gần tâm và có nhiều màu vàng cam nhạt, vòng đồng tâm xung quanh lỗ tròn.
Nhũ đá nung dễ dàng nghiền nát để chiết xuất hoạt chất.Tác dụng làm ấm thận và kích thích tình dục, và có thể giúp giảm sưng, giải độc.
2 Công dụng của Thạch nhũ
Bản kinh có viết: Thạch nhũ vị ngọt, tính ôn. Chủ trị hen phế quản, cũng có thể trị được các bệnh về mắt, tăng cường thị lực, bổ sung các dưỡng chất cần thiết cho cơ thể, tăng cường chức năng của nam giới, tốt cho ngũ tạng, điều tiết chức năng của cơ quan nội tạng, thông cửu khiếu (tức 2 tai, 2 mắt, 2 mũi, miệng, cơ quan sinh dục và hậu môn). Ngoài ra, còn có tác dụng chữa bệnh tắc tia sữa.
Đông y cho rằng, dược tính của thạch nhũ là vị ngọt, tính ôn, quy về phế, thận, vị kinh. Khi vào phế chủ trị phổi hư nhược, ho khan, ho có đờm, hen suyễn; đi vào thận có thể tráng dương nạp khí, trị các chứng bệnh liệt dương, di tinh, mắt mờ…; khi vào vị chủ trị về dạ dày, có tác dụng bổ ích nguyên khí, trị bệnh tắc tia sữa. Do dược khí của vị thuốc này tính ôn cho nên có tác dụng thông gan, sáng mắt. Thạch nhũ bản chất thông suốt, cho nên có thể thông cửu khiếu và khớp xương ở tứ chi, trị các chứng bệnh về xương khớp, như: Tê bì gân cốt, mỏi gối, đau vai, viêm âm đạo.
Bản thảo cương mục cho rằng: Thạch nhũ có thể bổ hư, ích khí, trị các bệnh phong thấp khớp chân, hạ tiêu thương khát và nhiều âm khí. Những người uống trong thời gian dài có tác dụng kéo dài tuổi thọ, nhuận sắc, có thể sinh con trai. Đối với những công hiệu của thạch nhũ như tráng dương ích tình, Lý Thời Trân đã đưa ra một số ví dụ dẫn trong “chủng thụ thư” (sách về các loại cây trồng) như sau: Chúng ta khoét một lỗ nhỏ trên cây, cho vào đó một ít bột thạch nhũ, sau đó lấp lại, cây sẽ cho ra trái sum sê mà vị cũng rất ngon. Còn có cách nói khác cho rằng, nếu cho một ít thạch nhũ vào giữa vỏ cây ở những cây già cỗi, những cây đó sẽ sinh sôi phát triển rất mạnh. Cho nên người xưa tin rằng, thạch nhữ giúp nhuận khí tráng dương, có thể sinh con trai là điều không có gì kỳ lạ.
3 Một số bài thuốc từ Thạch Nhũ
3.1 Trị bệnh ho dai dẳng
Bột thạch nhũ 15g, sáp 62g. Trộn đều 2 vị thuốc này, hấp chín, nặn thành viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 1 viên với nước ấm.
3.2 Trị nôn ra máu, tổn thương phối
Lấy 6g bột thạch nhũ, mỗi lần ăn cùng với cháo gạo nếp loãng.
3.3 Trị tuyến sữa không thông (khí huyết hư, mạch tắc không thông, ít sữa)
Dùng 6g bột thạch nhũ và lậu lô sắc thành nước đặc rồi uống. Còn có cách khác: Thạch nhũ, thông thảo – nghiền thành bột, mỗi lần lấy 4ml, dùng kết hợp với cháo loãng, ngày uống 3 lần.
3.4 Bài thuốc trị đau lưng và đầu gối, chân tay lạnh, đi lại yếu, chân tay nặng nề.
Thành phần: Thạch nhũ 60g, xương cựa 30g, cây Bạch Chỉ 30g, cây dương đào 20g, hạt coix 20g , măng tây 20g, hoa xô đỏ 20g, chuanxiong 15g, Bìm Bìm 20g, bạch đàn 20g, hoàng kim 30g, củ cải vàng 20g, cây phụ tử 15g, Quế 15g, 10 gam thân rễ, 10 gam Gừng khô, 5 lít rượu trắng
Công dụng: Tăng cường dương dưỡng thận, dưỡng khí huyết, trừ phong, tiêu ẩm.
Cách chế biến: Đầu tiên nhũ đá ngâm trong canh Cam Thảo 3 ngày đêm, sau đó ngâm trong sữa 2 giờ, sau đó cho vào nồi hấp cơm khoảng 2 giờ, sau khi đổ hết sữa thì vớt thạch nhũ ra. rửa sạch với nước rồi xay nhuyễn để sử dụng sau. Phần thuốc còn lại tán thành bột mịn, cho vào túi gạc trắng cùng với nhũ đá, buộc miệng, cho vào bình sạch, ngâm trong rượu trắng, đậy kín, sau 14 ngày thì lọc lấy nước. loại bỏ cặn và đóng chai để sử dụng sau.
Cách dùng: Ngày 2 lần, mỗi lần 10-20ml, uống khi bụng đói vào buổi sáng và buổi tối.
Điều kiêng kỵ: Người âm hư, thừa hỏa, nhiệt ẩm nên tránh uống loại rượu này.
4 BỨC TRANH TRÚC LÀM THẤT HIỆN (CỤC BỘ)
“Trúc lâm Thất hiến” (cục bộ), thời Đường, tranh lụa màu lưu giữ tại viện bảo tàng Thượng Hải.
Thời Xuân thu Chiến quốc, con người đã bắt đầu dùng thạch nhũ làm vị thuốc, nhằm dưỡng thần ích khí giúp cho tinh thần phấn chấn, lưu truyền đến tận thời Hân. Nhắc đến thạch được thì không thể không nhắc đến “Ngũ thạch tán”, còn gọi là “Hàn thực tàn”. Hầu hết đều cho rằng, phương thuốc đó được điều chế bởi Trương Trọng Cảnh thời Đông Hán. Sở dĩ có tên gọi là “Ngũ thạch tán”, bởi vì là một loại thuốc Đông được tàn của 5 vị thạch được kết hợp bao gồm: Thạch nhũ, thạch anh tím, thạch anh trắng, đá Lưu Huỳnh và hồng ngọc. Nhưng còn có tên gọi khác là “Hàn thực tán, bởi vì sau khi uống thuốc xong, cần phải ăn thức ăn lạnh mới có thể tản nhiệt. Nhưng vì “ngũ thạch” cũng là loại dược phẩm có tính chất hút ẩm. Sau khi uống, ngũ tạng sẽ nóng ran, chỉ dựa vào “hấp thụ thức ăn lạnh giảm tính nóng của nó thì không thể đủ, người bệnh còn cần đi bộ cho ra mồ hôi, nhằm kích thích được tỉnh. Ngoài ra, vì được tỉnh của thuốc là tính nóng, cho nên cần phải mặc áo dài rộng, tay áo rộng, thậm chí nếu ở trong phòng thì có thể không mặc quần áo. Trào lưu uống thạch được ở thời Ngụy Tần đã lên đến đỉnh cao, trang phục phóng khoảng mặc áo dài rộng của
Thất hiến trúc lâm trong bức tranh có mối quan hệ với việc uống thạch được.
5 Tài liệu tham khảo
Sách Thần Nông Bản Thảo Kinh (Xuất bản năm 2021). Thạch nhũ, trang 21-22. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2023.