Riềng (Cao Lương Khương – Alpinia officinarum)

Riềng (Cao Lương Khương - Alpinia officinarum)

Riềng là gia vị không hề xa lạ với các món ăn trong bữa cơm của người Việt, ngoài tác dụng làm một loại gia vị quan trọng, riềng còn có những công dụng trị bệnh khác không phải ai cũng biết. Trong bài viết này, Thuốc Gia Đình xin gửi đến bạn đọc những thông tin về Riềng.

1 Giới thiệu về Riềng

Riềng hay còn gọi là cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galanga, Cốc khá (Tày)

Tên khoa học của riềng là Alpinia officinarum Hance. Thuộc họ Gừng Zingiberaceae

Cao lương khương hay lương khương (Galanga, hay Rhizoma Alpiniae officinarum) là thân rễ phơi khô của cây riêng. 

Vì đây là một loại “gừng” mọc ở quận Cao Lương, do đó có tên này (khương là gừng). 

1.1 Mô tả thực vật

Riềng là một loại cỏ nhỏ, cao chừng 0,70-1,2m, cũng có tài liệu ghi cây cao 1-1,5m. Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ, đường kính 12-18mm có thể đến 20mm, màu đỏ nâu, phủ nhiều vẩy, chia thành nhiều đốt không đều nhau, màu trắng nhạt.

Lá không có cuống, có bẹ dạng vảy, có khía, lưỡi bẹ dạng vảy nhọn, mọc so le thành hai dãy, hình mắc dài, hẹp, nhẵn, mặt trên bóng và màu sẫm hơn mặt dưới, dài 22- 40cm, rộng 24mm.

Cụm hoa hình chuỳ, mọc ở ngọn thân thành chùy thẳng, có lông măng mềm, dài chừng 10cm. Hoa rất sít nhau, hoa riềng trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một có màu xanh, một có màu trắng. Tràng hình ống, có 3 thuỳ tù, hình thon, dài từ 15- 20mm, rộng từ 4-5mm, thuỳ giữa chỉ hơi lớn hơn các thuỳ khác, cánh môi hình trứng, dài 20mm, rộng 15-18mm, màu trắng, có vạch màu đỏ sim.

Quả hình cầu có lông hình cầu. Hạt có áo hạt

Riềng là một loại cỏ nhỏ
Riềng là một loại cỏ nhỏ

1.2 Phân bố, sinh thái

Cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Có cả ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Văn Nam, Đài Loan). 

Cây riềng mọc tốt ở khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, cây ưa ẩm, chịu bóng, trồng xen kẽ ở các vườn cây ăn quả tốt hơn trên các cánh đồng. Cây không chịu được ngập úng, có thể hơi chịu hạn. 

Thân rễ nằm ngang cách mặt đất 3-5 cm sẽ mọc lên nhiều chồi vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè, chưa quan sát được cây con mọc từ hạt

Có thể thu hái quanh năm, thường đào vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước vụ mưa phùn để dễ phơi, sấy. 

Loại trồng thì đào vào tháng 7-10.

Sau khi đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ lá và rễ con, vảy lá rồi cắt thành từng đoạn 4-6cm, phơi khô là được. 

1.3 Bộ phận sử dụng

Thân rễ đã loại bỏ rễ con, vết lá còn lại, rửa sạch, cắt phiến rồi phơi hay sấy khô

1.4 Cách ngâm rượu củ riềng

Dùng 100g của riềng già đem giã nhỏ rồi ngâm với 200ml rượu hoặc cồn 70 độ

Hoặc có nhiều cách ngâm củ riềng với những vị thuốc khác nhau với rượu hay cồn, tùy thuộc vào những bài thuốc cụ thể.

Thường dùng thân rễ
Thường dùng thân rễ riềng

2 Thành phần hóa học

Trong riềng có từ 0,5-1% tinh dầu, lỏng sền sệt, màu vàng xanh, có mùi Long Não, trong đó chủ yếu có xineola và metylxinnamat, các Flavonoid là quercetin và 3-methylether, galangin và 3-methylether, kaempferol, kaempferid và isorhamneun. 

Ngoài tinh dầu, trong riêng còn có các chất sau đây: 

Một chất dầu, có vị cay gọi là galangola. 

Ba chất có tinh thể, không có vị gì, đều là dẫn xuất của flavon. Số lượng chiếm khoảng 0,1%. Ba chất đó là galangin C15H10O5, alpinin C17H16O6 và kaempferit C16H12O6 (1-3 dioxy-4-metoxyflavonon). 

Thân rễ riềng còn chứa nhiều diarylheptanoid : 5-hydroxy-7-(4-hydroxy-3-methoxyphenyl) – 1-phenyl-heptan-3-on; 1,7-diphenylhept-4-en-3-on; 7-(4-hydroxy-3-methoxyphenyl)-1-phenylheptan – 3,5- dion…

Thành phần hóa học
Thành phần hóa học

3 Tác dụng dược lý

Riềng có tác dụng gãy giãn mạch trên mạch cô lập và chống co thắt cơ trơn ruột gây bởi histamin và acetylcholin trên động vật thí nghiệm. 

Diarylheptanaid trong riềng có tác dụng ức chế sự sinh tổng hợp prostaglandin. 

Một số kết quả thí nghiệm cho thấy, Riềng và các hợp chất hoạt tính sinh học chính của nó có tác dụng chống viêm đối với chứng viêm do Lipopolysacarit gây ra.

4 Tác dụng – Công dụng

4.1 Tính vị, công năng

Theo tài liệu cổ, cao lương khương có vị cay, mùi thơm, tính ôn, vào hai kinh tỳ và vị. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hết đau, tiêu thực. 

Quả riềng có vị cay, tính ấm, có tác dụng làm ấm  bụng, chống lạnh, cầm nôn, giảm đau, ợ hơi

4.2 Công dụng

Củ riềng được sử dụng cả trong đông và tây y làm thuốc kích thích tiêu hoá, ăn ngon cơm, chữa đầy hơi, đau bụng, đau dạ dày, sốt rét, sốt nóng, đi lỏng, trúng hàn, nôn mửa. 

Có khi người ta dùng nhai để chữa đau răng. 

Ngày dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay rượu thuốc. 

Còn quả riềng khô chữa sốt rét, ăn không tiêu, thổ tả, buồn nôn, đau bụng, ngày 2-6g quả tán nhỏ

Tại Trung Quốc và Nhật Bản, các ghi chép cổ còn dùng riềng chữa đau dạ dày, khó tiêu, nôn mửa, đau bụng.

4.3 Củ riềng ngâm rượu có tác dụng gì?

Tùy từng bài thuốc mà củ riềng ngâm rượu hay kết hợp với những vị thuốc khác ngâm rượu có những tác dụng khác nhau như: dùng chữa hắc lào, dùng để xoa bóp, chữa đau bụng, tiêu chảy…

5 Củ riềng kỵ gì?

Không nên dùng riềng hay bài thuốc chứa riềng với những người trong người quá nhiệt, đang bị sốt cao, khô miềng, khát nước, nước tiểu có màu vàng hay đỏ. 

Một số công dụng
Một số công dụng

6 Bài thuốc chứa riềng

6.1 Chữa đau bụng nôn mửa

Dùng Cao lương khương 8g, đại táo 1 quả. Sắc với 300ml nước, còn 100ml chia 2 hay 3 lần uống trong ngày 

Nếu không có đại táo có thể thay bằng 6g riềng và 12g gạo rang vàng, 1 vài khẩu mía, sắc với 200ml nước còn 100ml, uống 2-3 lần trong ngày.

6.2 Chữa sốt, sốt rét, kém ăn

Cao lương khương tẩm dầu vùng sao 40g, can khương nướng 40g. Hai vị tán nhỏ, dùng mật lợn hoà vào làm thành viên, bằng hạt ngô. Ngày uống 15-20 viên này. 

6.3 Chữa tiêu chảy

a) Riềng, củ gấu, gừng khô, sa nhân, Trần Bì, dùng các vị thuốc này với lượng bằng nhau, tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g. 

b) Riềng 200g, Quế 120g, vỏ vối 80g. Các vị tán qua, mỗi lần 12g sắc uống. 

6.4 Chữa phong thấp, buồn nôn

Dùng các vị sau với lượng bằng nhau: Riềng, vỏ quýt, hạt tử tô, tán nhỏ, viên với mật, uống với rượu, mỗi lần uống 5g ngày hai lần 

6.5 Chữa cảm sốt, sốt rét, kém ăn

a) Riềng tẩm Dầu Vừng sao 40g, can khương nướng 40g. Hai vị tán nhỏ, trộn với mật lợn làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 15 – 20 viên. 

b) Quả riềng tán nhỏ, uống 6 – 10g 

6.6 Chữa sốt rét

Dùng 1000g bột riềng, 3000g bột thường sơn; 2000g mỗi vị bột gừng khô, bột quế khô, bột thảo quả. Các vị lớn nhỏ, làm viên hoàn to bằng hạt ngô. Mỗi ngày uống 20 hoàn, trước khi lên cơn. 

6.7 Chữa đau dạ dày

Dùng rượu rửa riềng 7 lần, sấy khô, tán nhỏ; Hương Phụ rửa giấm 7 lần, sấy khô, tán nhỏ rồi trộn đều hai vị, làm thành viên. Mỗi lần uống 5g khi có cơn đau. 

6.8 Chữa hắc lào

Dùng 100g củ riềng già tán nhỏ, ngâm với 200ml cồn 90 độ, ngâm càng lâu càng tốt. Dùng bôi ngoài da ngày 1-2 lần

Hoặc dùng Nhựa chuối trộn với củ riềng giã nhỏ và vôi bột, làm thành thuốc bôi

6.9 Rượu chữa ỉa chảy hoặc xoa bóp vào những chỗ đau

Dùng 100g Riềng khô, 20g Quế nhục, 100g Dừng khô, 1 lít rượu trắng 40 độ. Đem tán nhỏ, ngâm 3 tuần trong rượu là có thể dùng. 

Khi đau bụng, đầy trướng, dùng mỗi lần 1 ly nhỏ khoảng 5-10ml

Trẻ em có thể dùng rượu để xoay xung quanh vùng rốn. Hoặc uống thì phải đun sôi cho bay bới hơi rượu rồi pha thêm đường, uống liều tùy theo lứa tuổi, bằng 1/3 hay 1/2 liều người lớn

7 Tài liệu tham khảo

  • Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam (Xuất bản năm 2004). Riềng trang 385-387, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Truy cập ngày 26 tháng 06 năm 2023.
  • Cây Thuốc Và Động Vật Làm Thuốc ở Việt Nam tập 2 (Xuất bản năm 2006). Riềng trang 628-630, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam tập 2. Truy cập ngày 26 tháng 06 năm 2023.
  • Cây rau – Cây thuốc (Xuất bản năm 2005). Riềng trang 44-45, Cây rau – Cây thuốc. Truy cập ngày 26 tháng 06 năm 2023.
  • Tác giả: Chia-Yu Li và cộng sự (Ngày đăng: năm 2021). The Anti-inflammatory Effects of the Bioactive Compounds Isolated from Alpinia officinarum Hance Mediated by the Suppression of NF-kappaB and MAPK Signaling, ResearchGate. Truy cập ngày 26 tháng 06 năm 2023

Để lại một bình luận