Bài viết biên soạn dựa theo
Dược thư quốc gia Việt Nam, lần xuất bản thứ ba
Do Bộ Y Tế ban hành Quyết định số 3445/QĐ-BYT ngày 23 tháng 12 năm 2022
Tên chung quốc tế: Naloxone hydrochloride.
Mã ATC: V03AB15.
Loại thuốc: Thuốc đối kháng opiat; thuốc giải độc opiat.
1 Dạng thuốc và hàm lượng
Dung dịch xịt mũi (dạng muối hydroclorid): 4 mg/0,1 ml.
Ống tiêm (dạng muối hydroclorid): 0,04 mg/2 ml; 0,4 mg/1 ml; 4 mg/10 ml.
Ống tiêm không có chất bảo quản (dạng muối hydroclorid): 0,4 mg/1 ml; 2 mg/2 ml.
Bơm tiêm đóng sẵn (dạng muối hydroclorid): 2 mg/2 ml.
Bơm tiêm tự động (dạng muối hydroclorid): 0,4 mg/1 ml; 0,8 mg/2 ml; 2 mg/5 ml.
Viên nén kết hợp với pentazocin: 0,5 mg naloxon hydroclorid + 50 mg pentazocin hydroclorid.
Viên ngậm dưới lưỡi: 0,5 mg naloxon hydroclorid ngậm 2 phân tử nước + 2 mg buprenorphin hydroclorid; 2 mg naloxon hydroclorid ngậm 2 phân tử nước + 8 mg buprenorphin hydroclorid.
2 Dược lực học
Naloxon hydroclorid là một chất bán tổng hợp, dẫn xuất từ thebain, là chất đối kháng opiat đặc hiệu có tác dụng cạnh tranh tại các thụ thể opiat trong hệ thần kinh trung ương, được coi là có ái lực cao nhất đối với thụ thể. Ngược lại với levalorphan hoặc nalorphin, naloxon ít hoặc không có hoạt tính chủ vận. Khi dùng với liều bình thường cho người bệnh gần đây không dùng opiat, naloxon ít hoặc không có tác dụng dược lý. Ngay cả liều rất cao (10 lần liều điều trị thường dùng) gây giảm đau không đáng kể, chỉ gây ngủ lơ mơ, và không gây tác dụng ức chế hô hấp, rối loạn tâm thần, thay đổi về tuần hoàn, hoặc co đồng tử.
Ở người bệnh đã dùng liều lớn Morphin hoặc thuốc giảm đau khác có tác dụng giống morphin, naloxon đối kháng phần lớn những tác dụng của opiat. Tăng tần số thở và tăng thể tích thở ra trong một phút, phân áp CO2 động mạch giảm xuống mức bình thường và huyết áp (nếu giảm) trở về bình thường. Khác với nalorphin hoặc levalorphan, naloxon làm giảm ức chế hô hấp nhẹ gây ra do opiat liều thấp. Vì thời gian tác dụng của naloxon thường ngắn hơn của opiat, nên tác dụng của opiat có thể trở lại khi tác dụng của naloxon hết. Naloxon đối kháng với tác dụng an thần hoặc gây ngủ của opiat. Ý kiến còn chưa thống nhất về vấn đề naloxon có hoặc không làm thay đổi tác dụng gây hưng phấn hoặc co giật của opiat. Naloxon không gây quen thuốc hoặc không gây nghiện về mặt thể chất hoặc tâm lý. Mặc dù liều 0,4 mg naloxon hydroclorid tiêm dưới da có thể thúc đẩy những triệu chứng cai thuốc nặng tiềm tàng ở người bệnh nghiện lệ thuộc về mặt thể chất với chế phẩm opiat hoặc pentazocin, uống naloxon thường không thúc đẩy những triệu chứng này, trừ khi liều uống vượt quá 10 mg. Ngay cả liều uống 30 mg naloxon cũng thường chỉ gây những triệu chứng cai thuốc rất nhẹ.
3 Dược động học
3.1 Hấp thu
Naloxon bị khử hoạt tính nhanh sau khi uống. Mặc dù thuốc có tác dụng khi uống, nhưng phải uống liều lớn hơn nhiều so với liều tiêm cần thiết để có đối kháng hoàn toàn. Sinh khả dụng dạng xịt mũi 4 mg/0,1 ml bằng 43 – 54% sinh khả dụng của thuốc khi tiêm bắp 0,4 mg.
Naloxon bắt đầu có tác dụng trong vòng 1 – 2 phút sau khi tiêm tĩnh mạch, trong vòng 2 – 5 phút sau khi tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, sau 8 – 13 phút khi dùng dạng xịt mũi qua ống nội khí quản. Thời gian duy trì tác dụng phụ thuộc vào liều và đường dùng thuốc. Tiêm bắp tác dụng kéo dài hơn so với tiêm tĩnh mạch. Trong một nghiên cứu, thời gian tác dụng kéo dài 45 phút sau khi tiêm tĩnh mạch naloxon hydroclorid 0,4 mg ở một người nặng 70 kg.
Trong một nghiên cứu ở trẻ sơ sinh, sau khi tiêm vào tĩnh mạch rốn 35 hoặc 70 microgam naloxon hydroclorid, nồng độ đỉnh huyết tương của naloxon xuất hiện trong vòng 40 phút và tương ứng là 4 – 5,4 nanogam/ml và 9,2 – 20,2 nanogam/ml. Trong cùng nghiên cứu đó, sau khi tiêm bắp 0,2 mg cho trẻ sơ sinh, nồng độ đỉnh huyết tương của naloxon xuất hiện trong vòng 0,5 – 2 giờ và đạt 11,3 – 34,7 nanogam/ml.
3.2 Phân bố
Sau khi tiêm, naloxon phân bố nhanh vào các mô và dịch của cơ thể. Ở chuột cống, thấy có nồng độ cao trong não, thận, lách, phổi, tim, cơ và xương. Naloxon liên kết yếu với protein huyết tương (chủ yếu là Albumin) và dễ dàng qua nhau thai. Không rõ naloxon có phân bố vào sữa mẹ hay không.
3.3 Chuyển hóa
Naloxon chuyển hóa nhanh trong gan, chủ yếu bằng cách liên hợp với acid glucuronic. Chất chuyển hóa chủ yếu là naloxon 3-glucuronid. Naloxon cũng bị khử N-alkyl và khử nhóm 6-ceto, sau đó liên hợp với acid glucuronic.
3.4 Thải trừ
Nửa đời trong huyết tương của naloxon là 30 – 81 phút ở người lớn và khoảng 3 giờ ở trẻ sơ sinh. 25 – 40% liều uống hoặc tiêm tĩnh mạch được bài tiết dưới dạng chất chuyển hóa qua nước tiểu trong 6 giờ, khoảng 50% trong 24 giờ và 60 – 70% trong 72 giờ.
4 Chỉ định
Quá liều thuốc giảm đau opiat.
Ức chế hô hấp khi dùng thuốc giảm đau opiat liều điều trị.
Ức chế hô hấp do sử dụng thuốc giảm đau opiat trong khi phẫu thuật.
5 Chống chỉ định
Mẫn cảm với naloxon.
6 Thận trọng
Khi dùng naloxon điều trị quá liều opiat gây độc cấp, vì thời gian tác dụng của một số opiat có thể dài hơn của naloxon nên phải theo dõi sát người bệnh và dùng một số liều naloxon nhắc lại. Phải có sẵn biện pháp hồi sức khác (ví dụ, duy trì thông khí đầy đủ, hô hấp nhân tạo, ép tim ngoài lồng ngực, thuốc tăng huyết áp) để sử dụng khi cần thiết.
Sau khi dùng các opiat trong khi phẫu thuật, phải tránh dùng liều naloxon quá cao, vì có thể dẫn đến kích thích, tăng huyết áp và mất tác dụng giảm đau là tác dụng chủ yếu trong lâm sàng. Làm mất tác dụng của opiat quá nhanh có thể gây buồn nôn, nôn, ra mồ hôi, run, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, động kinh, nhịp nhanh thất và thất, phù phổi và ngừng tim, dẫn đến tử vong.
Phải dùng thận trọng naloxon cho người bệnh đã biết rõ hoặc nghi ngờ lệ thuộc opiat về mặt thể chất (kể cả những trẻ mới sinh tử bà mẹ nghiện opiat), đặc biệt ở những người có bệnh tim mạch, vì naloxon có thể thúc đẩy những triệu chứng nặng trong lúc cai nghiện.
Phải dùng thận trọng naloxon cho người bệnh có bệnh tim mạch từ trước hoặc những người đang dùng thuốc có khả năng độc với tim, vì ADR về tim phổi nghiêm trọng (ví dụ, nhịp nhanh thất và rung thất, phù phổi, ngừng tim) dẫn đến tử vong, hôn mê và bệnh não đã xảy ra ở những người bệnh hậu phẫu, đã dùng naloxon sau khi phẫu thuật.
Vì thời gian tác dụng của một số opiat có thể dài hơn naloxon, nên cần theo dõi cẩn thận người bệnh đang dùng naloxon; đối với trẻ em dùng naloxon phải theo dõi cẩn thận trong thời gian tối thiểu 24 giờ. Đối với những người bệnh này, khi cần thiết cần phải dùng liều naloxon nhắc lại.
Cần thận trọng khi dùng naloxon cho những người suy thận hoặc suy gan.
Thận trọng ở trẻ em: An toàn và hiệu lực của naloxon trong điều trị huyết áp thấp do sốc nhiễm khuẩn ở trẻ em chưa được xác định. Trong một nghiên cứu điều trị naloxon cho 2 trẻ sơ sinh bị sốc nhiễm khuẩn, đã cho đáp ứng dương tinh về huyết áp; tuy nhiên một trẻ sơ sinh sau đó bị tử vong sau những cơn động kinh.
Thận trọng ở người cao tuổi: Chưa đủ số lượng người bệnh tuổi từ 65 trở lên được nghiên cứu, nên chưa xác định được sự đáp ứng khác nhau giữa người cao tuổi và người trẻ tuổi. Nhưng thông thường đối với người bệnh cao tuổi nên thăm dò cẩn thận liều lượng naloxon, thường bắt đầu điều trị với liều ở giới hạn thấp nhất. Cũng cần lưu ý đến việc người cao tuổi hay bị suy giảm chức năng gan, thận và/hoặc tim và có bệnh kèm theo.
7 Thời kỳ mang thai
Ở người, naloxon qua nhau thai dễ dàng. Cho tới nay, chưa có nghiên cứu và kiểm tra đầy đủ về dùng naloxon ở người mang thai. Chỉ nên dùng naloxon cho người mang thai khi thật cần thiết. Cần cân nhắc nguy cơ lợi hại trước khi dùng naloxon cho người mẹ mang thai đã biết hoặc nghi ngờ bị nghiện opiat, vì mẹ nghiện thường con cũng bị. Naloxon qua nhau thai và có thể thúc đẩy hội chứng cai thuốc ở thai nhi cũng như ở người mẹ.
8 Thời kỳ cho con bú
Vì không biết naloxon có bài tiết vào sữa mẹ không, cần thận trọng khi dùng naloxon cho người cho con bú. Cách xử lý an toàn nhất là không nên cho con bú trong thời gian dùng thuốc.
9 Tác dụng không mong muốn (ADR)
Làm mất đột ngột tác dụng ức chế của opiat có thể dẫn đến buồn nôn, nôn, ra mồ hôi, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, run, co giật, nhịp nhanh thất và rung thất, phù phổi và ngừng tim dẫn đến tử vong. Ở người bệnh sau mổ, dùng liều naloxon lớn hơn mức cần thiết có thể dẫn đến mất tác dụng giảm đau và gây kích thích. Giảm huyết áp, tăng huyết áp, nhịp nhanh thất và rung thất, phù phổi đã xảy ra do dùng naloxon sau khi mổ.
9.1 Thường gặp
Hô hấp: khó thở, thở sâu nhanh.
Tim mạch: tăng huyết áp, giảm huyết áp, nhịp tim nhanh, loạn nhịp thất.
TKTW: mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, buồn ngủ, trầm cảm, đờ dẫn, thiếu khả năng tập trung, lo âu, triệu chứng cai nghiện đối với opiat (những tác dụng này thường xuất hiện trong mấy ngày đầu cho uống liều cao naloxon để điều trị nghiện opiat và nhanh chóng giảm đi khi tiếp tục điều trị hoặc giảm liều).
Da: phát ban.
Tiêu hóa: buồn nôn, nôn, chán ăn.
Mắt nhìn mờ.
9.2 Ít gặp
Tiêu hóa: tiêu chảy, khô miệng.
TKTW: bối rối, dễ bị kích thích, dị cảm.
Khác: vã mồ hôi, run.
9.3 Hiếm gặp
TKTW: động kinh.
Da: ban đỏ đa hình (nhanh chóng hết sau khi ngừng naloxon).
10 Hướng dẫn cách xử trí ADR
Những ADR của naloxon có thể giảm bớt sau khi giảm bớt liều hoặc ngừng dùng thuốc.
11 Liều lượng và cách dùng
11.1 Cách dùng
Naloxon hydroclorid thường được tiêm tĩnh mạch hoặc truyền tĩnh mạch qua máy bơm, nhưng cũng có thể tiêm bắp, tiêm dưới da, đôi khi qua ống nội khí quản. Nên dùng đường tĩnh mạch trong trường hợp cấp cứu.
11.2 Liều lượng
11.2.1 Quá liều thuốc giảm đau opiat
Người lớn:
- Tiêm tĩnh mạch, tiêm bắp hoặc tiêm dưới da với 0,4 – 2 mg và lặp lại nếu cần, cách nhau 2 – 3 phút. Có thể dùng liều thấp hơn (0,1 – 0,2 mg) cho bệnh nhân lệ thuộc opiat. Sau khi có đáp ứng thuốc thì có thể lặp lại liều cách nhau 20 – 60 phút tùy thuộc vào loại và khoảng thời gian sử dụng opiat. Nếu không đáp ứng sau tổng liều 10 mg, phải xem lại quá liều do thuốc khác, không phải do thuốc opiat.
- Xịt mũi qua ống nội khí quản: Liều 4 mg, có thể lặp lại cứ sau 2 – 3 phút. Trẻ em: Ưu tiên tiêm tĩnh mạch, có thể tiêm bắp hoặc tiêm dưới da. Tiêm tĩnh mạch: Trẻ sơ sinh và trẻ em < 5 tuổi hoặc ≤ 20 kg: 0,1 mg/kg (tối đa 2 mg), cứ sau 2 – 3 phút lặp lại một lần nếu cần thiết. Trẻ em ≥ 5 tuổi hoặc > 20 kg: 2 mg, nếu không đáp ứng thì cứ sau 2 – 3 phút lặp lại một lần.
- Tiêm dưới da hoặc tiêm bắp: Khởi đầu 0,01 mg/kg/liều, nếu không đáp ứng thì tiêm tiếp liều 0,1 mg/kg/liều (cần chia nhỏ liều để tiêm). Với bơm tiêm tự động thì dùng 0,4 mg hoặc 2 mg/lần, cứ sau 2 – 3 phút lặp lại một lần nếu cần thiết.
- Xịt mũi qua ống nội khí quản: 4 mg, cứ sau 2 – 3 phút lặp lại một lần đến khi có liệu pháp can thiệp khác.
- Ức chế hô hấp khi dùng thuốc giảm đau opiat liều điều trị: Người lớn: Tiêm tĩnh mạch chậm 0,02 – 0,2 mg.
Trẻ sơ sinh và trẻ em: Tiêm tĩnh mạch chậm đến khi có tác dụng 0,001 – 0,015 mg/kg hoặc tiêm tĩnh mạch liều khởi đầu 0,005 – 0,01 mg và cứ sau 2 – 3 phút lặp lại một lần nếu cần thiết.
11.2.2 Ức chế hô hấp do sử dụng thuốc giảm đau opiat trong khi phẫu thuật
Người lớn và trẻ em ≥ 12 tuổi: Tiêm tĩnh mạch liều khởi đầu 0,1 – 0,2 mg hoặc 0,0015 – 0,003 mg/kg, cứ sau 2 – 3 phút tiêm tĩnh mạch 0,1 mg hoặc tiêm bắp 0,1 mg cứ sau 1 – 2 giờ.
Trẻ em 1 tháng – 11 tuổi: Tiêm tĩnh mạch 0,001 mg/kg, lặp lại cứ sau 2 – 3 phút nếu cần.
12 Tương tác thuốc
Dùng đồng thời naloxon với những thuốc giảm đau opiat dẫn đến giảm tác dụng của các thuốc.
13 Tương kỵ
Không được trộn lẫn thuốc tiêm naloxon hydroclorid với những chế phẩm chứa bisulfit, metabisulfit, những anion có mạch dài hoặc phân tử lượng cao, hoặc bất cứ dung dịch nào có pH kiềm. Không được cho thêm các thuốc hoặc các chất hóa học vào dung dịch naloxon hydroclorid trừ khi đã xác định được tác dụng của chúng trên độ ổn định hóa học và vật lý của dung dịch naloxon.
14 Quá liều và xử trí
Chưa có kinh nghiệm lâm sàng về quá liều naloxon ở người.
Cập nhật lần cuối: 2021