Kanamycin

Bài viết biên soạn dựa theo

Dược thư quốc gia Việt Nam, lần xuất bản thứ ba

Do Bộ Y Tế ban hành Quyết định số 3445/QĐ-BYT ngày 23 tháng 12 năm 2022

KANAMYCIN 

Tên chung quốc tế: Kanamycin. 

Mã ATC: J01GB04, A07AA08, S01.AA24. 

Loại thuốc: Kháng sinh nhóm aminoglycosid. 

1 Dạng thuốc và hàm lượng 

Lọ thuốc tiêm kanamycin sulfat tương đương 500 mg hoặc 1 g kanamycin base. 

2 Dược lực học 

Kanamycin là một kháng sinh nhóm aminoglycosid có tác dụng diệt khuẩn. Tương tự như các aminoglycosid khác, kanamycin có tác dụng ức chế tổng hợp protein của các vi khuẩn nhạy cảm bởi liên kết không thuận nghịch với tiểu đơn vị 30S ribosome. Nói chung các aminoglycosid có phổ kháng khuẩn với vi khuẩn Gram âm và một số Gram dương hiếu khí như Acinetobacter, Citrobacter, Enterobacter, Escherichia coli, Klebsiella, Proteus có sinh và không sinh indol, Providencia, Pseudomonas, Salmonella, Serratia và Shigella. Tuy nhiên phổ kháng khuẩn của từng thuốc khác nhau. In vitro, kanamycin có hoạt tính với các chủng Mycobacterium nhu M. kansaii, M. marinum và M. intracellulosa. Tuy nhiên, tác dụng trên lâm sàng với các chủng này chưa được chứng minh đầy đủ. 

Aminoglycosid không có tác dụng đối với liên cầu khuẩn và đa số chủng vi khuẩn đường ruột Enterococcus đã kháng thuốc. Kháng chéo giữa kanamycin, Neomycin và paromomycin đã thấy xảy ra, nhưng không thấy kháng chéo giữa kanamycin và Streptomycin với các chủng Mycobacterium cũng như với các chủng vi khuẩn khác. Mycobacterium tuberculosis nhìn chung đã kháng chéo hoàn toàn giữa Amikacin và kanamycin, kháng chéo một phần giữa kanamycin và capreomycin. Các chủng M. tubeculosis ban đầu nhạy cảm với thuốc sẽ tăng kháng rất nhanh nếu dùng đơn trị liệu. 

3 Dược động học 

3.1 Hấp thu

Do hấp thu kém qua Đường tiêu hóa, kanamycin thường được dùng qua đường tiêm. Kanamycin hấp thu nhanh qua tiêm bắp với Sinh khả dụng từ 40 – 80%. Nồng độ đỉnh trong huyết thanh đạt được sau 1 giờ. Sau khi tiêm bắp 1 giờ, ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường, liều 7,5 mg/kg, Cmax trung bình đạt được trong huyết thanh là 22 microgam/ml.  

3.2 Phân bố

Kanamycin liên kết với protein thấp (dưới 3%). Vd là 190 ml/kg. Thuốc phân bố vào phần lớn các mô và dịch trong cơ thể. Nồng độ thấp trong nước bọt, dịch phế quản và màng não không viêm. Thuốc qua được hàng rào nhau thai và phân bố vào sữa mẹ. 

3.3 Chuyển hóa và thải trừ

Kanamycin không bị chuyển hóa và thải trừ ở dạng không đổi chủ yếu qua lọc cầu thận, thuốc không tái hấp thu ở ống thận. Thuốc có thể loại trừ bằng thẩm phân máu hay màng bụng. Nửa đời thải trừ của kanamycin ở người lớn là từ 1,5 – 3,2 giờ (trung bình là 2,2 – 2,4 giờ) và có thể kéo dài hơn tùy vào mức độ suy thận và đối tượng bệnh nhân. Nửa đời thải trừ của kanamycin ở bệnh nhân suy thận nặng có thể từ 27 – 80 giờ. 

4 Chỉ định 

Kanamycin là thuốc chống lao hàng hai được phối hợp với các thuốc chống lao khác trong điều trị lao kháng Rifampicin, lao đa kháng thuốc. Lưu ý, không dùng đơn độc kanamycin trong điều trị lao. Với các nhiễm khuẩn khác, kanamycin có thể được được chỉ định dùng trong thời gian ngắn để điều trị nhiễm khuẩn nặng do các chủng vi khuẩn nhạy cảm như E. coli, Proteus, Enterobacter aerogenes, Klebsiella pneumoniae, Serratia marcescens và Mima Herella, Mycobacterium tubeculosis, Pseudomonas aeruginosa, Haemophilus influenzae, Streptococcus pneumoniae trong các trường hợp như nhiễm khuẩn ở đường mật, xương và khớp, TKTW, ổ bụng, phổi, da và mô mềm, đường tiết niệu. Tuy nhiên, do độc tính và sự kháng thuốc nên kanamycin chỉ được dùng trong một số trường hợp bệnh nặng và không thể dùng được các loại kháng sinh khác (ít độc hơn) do các kháng sinh này bị kháng hoặc chống chỉ định. Kanamycin chỉ sử dụng trong trường hợp vi khuẩn còn nhạy cảm với thuốc. Khi chỉ định kháng sinh nhóm aminoglycosid thì amikacin, gentamycin hoặc tobramycin thường được ưu tiên hơn. 

5 Chống chỉ định 

Người bệnh có tiền sử quá mẫn hoặc có phản ứng độc với kanamycin hoặc các aminoglycosid khác. Không sử dụng dài ngày trong điều trị nhiễm khuẩn (ví dụ điều trị lao). Không dùng cho bệnh nhân bị tắc ruột. 

6 Thận trọng 

Kanamycin gây độc tính trên thận. Khi suy thận, thải trừ kanamycin giảm, cần phải giảm liều và tăng lượng nước để tránh độc tính. Bệnh nhân cần được đánh giá chức năng thận trước khi và trong khi dùng thuốc. Đặc biệt bệnh nhân dùng đồng thời với thuốc khác có độc tính trên thận, dùng liều cao, kéo dài. 

Kanamycin gây độc tính trên thính giác. Cần thận trọng khi sử dụng cho bệnh nhân giảm thính lực do trước đây dùng streptomycin. Cần ngừng dùng hoặc giảm liều kanamycin nếu có dấu hiệu độc tính trên thính giác như chóng mặt, ù tai, mất thính lực. 

Kanamycin có thể gây ức chế thần kinh cơ và liệt hô hấp, đặc biệt khi dùng liều cao tiêm trong màng bụng ở bệnh nhân đang gây mê hoặc đang dùng thuốc giãn cơ (như succinylcholin, tubocurarin). Do vậy, không được tiêm vào màng bụng trong phẫu thuật ở những người bệnh đã dùng thuốc phong bế thần kinh cơ. 

Kanamycin làm giảm nhẹ trương lực cơ ở những người bệnh nhược cơ. Do đó thận trọng khi dùng trên những bệnh nhân này. Bệnh lý thần kinh về cảm giác, vận động đã xảy ra khi dùng kanamycin tại chỗ trong phẫu thuật cột sống. 

7 Thời kỳ mang thai 

Các aminoglycosid đi qua nhau thai và có thể gây hại cho bào thai. Do vậy, không dùng kanamycin trong thời kỳ mang thai. 

8 Thời kỳ cho con bú 

Do kanamycin bài tiết vào sữa mẹ và có khả năng gây phản ứng bất lợi nghiêm trọng cho trẻ bú mẹ. Vì vậy dùng thuốc thận trọng và tùy vai trò của thuốc với người mẹ mà cân nhắc nên ngừng cho con bú hay không. 

9 Tác dụng không mong muốn (ADR) 

Tương tự các aminoglycosid khác, ADR thường gặp và nặng nhất của kanamycin là độc với thính giác, phong bế thần kinh cơ, phản ứng quá mẫn và nhiễm độc thận. Dùng kéo dài có thể dẫn đến rối loạn hấp thu. 

9.1 Thường gặp 

Độc với thính giác, nhiễm độc thận (ít gặp khi dùng liều thấp dưới 15 mg/kg/ngày và thời gian điều trị ngắn; có thể tới 50% hoặc hơn nếu tổng liều dùng đến 30 g). 

Độc với thính giác tăng lên khi kết hợp kanamycin với các thuốc có độc tính trên thính giác khác. 

9.2 Ít gặp 

Phản ứng mẫn cảm; ngứa, ban đỏ da, sưng; giảm vitamin K (dẫn đến làm giảm prothrombin máu) gây chảy máu; giảm vitamin B1, gây viêm thần kinh, viêm miệng. 

9.3 Hiếm gặp 

Phong bế thần kinh cơ, dị cảm, khó thở, chóng mặt, mệt mỏi. Sốc phản vệ. 

10 Hướng dẫn cách xử trí ADR 

Nếu xuất hiện ù tai hoặc các dấu hiệu nhiễm độc thính giác khác, phải giảm liều hoặc ngừng thuốc. Đôi khi thấy có trụ niệu trong và hạt trong mẫu nước tiểu lấy trong 16 giờ đầu sau khi dùng kanamycin liều cao, nhưng không gây tổn thương thận vĩnh viễn và các trụ niệu sẽ hết khi ngừng thuốc. Bệnh nhân cần được uống nhiều nước trước khi dùng và trong khi dùng kanamycin để giảm lắng đọng kanamycin ở ống thận do nồng độ kanamycin cao trong nước tiểu. 

11 Liều lượng và cách dùng 

11.1 Cách dùng 

Kanamycin có thể được dùng bằng đường tiêm bắp sâu hoặc truyền tĩnh mạch. Đường tĩnh mạch thường được khuyến cáo dùng cho những nhiễm khuẩn nặng, đe dọa tính mạng. 

11.1.1 Tiêm bắp

Pha dung dịch tiêm bắp có nồng độ khoảng 250 mg/ml (lọ 1 g pha với 4 ml nước cất pha tiêm). Tiêm bắp sâu vào cung phần tư phía trên của cơ mông. 

11.1.2 Truyền tĩnh mạch

Truyền tĩnh mạch với liều tương tự tiêm bắp. Pha thuốc truyền tĩnh mạch bằng cách cho vào lọ 500 mg kanamycin 100 – 200 ml dung dịch truyền tĩnh mạch Natri clorid 0,9% hoặc dextrose 5% (hoặc thêm vào 1 g thuốc 200 – 400 ml). Tốc độ truyền thích hợp là từ 30 – 60 phút. Không tiêm dung dịch thuốc đặc vào tĩnh mạch. 

Thời gian điều trị trung bình trong khoảng 7 – 10 ngày, hoặc kéo dài hơn nếu cần trong trường hợp nhiễm khuẩn có biến chứng. Cần lưu ý là độc tính sẽ tăng hơn khi thời gian điều trị kéo dài trên 10 ngày. Không khuyến cáo điều trị dài ngày. 

Chế độ liều 1 lần mỗi ngày của kanamycin được khuyên dùng cho điều trị lao. Hiểm khi dùng chế dùng chế độ 1 lần mỗi ngày cho các chỉ định khác của kanamycin. 

11.1.3 Một số đường dùng khác 

Trước đây, thuốc đã được dùng qua đường uống (rất ít), nhưng tới nay không còn dùng. Kanamycin cũng có thể được dùng tại chỗ tiêm nhỏ giọt vào trong màng bụng hoặc tưới tại chỗ vào ổ áp xe, khoang màng phổi và não thất, nhưng tăng nguy cơ nhiễm độc do thuốc hấp thu nhanh như tiêm bắp, không khuyến cáo dùng đường này. Kanamycin còn được dùng dạng hít khí dung với liều 250 mg/lần, 2 đến 4 lần/ngày. Pha bằng cách rút 250 mg (1 ml) từ lọ 500 mg và pha với 3 ml nước muối sinh lý. 

11.2 Liều lượng 

Kanamycin thường được sử dụng dưới dạng kanamycin acid sulfat hoặc kanamycin sulfat. Liều tiêm bắp và truyền tĩnh mạch như nhau. Liều dùng được tính theo lượng quy đổi tương đương với kanamycin base (khoảng 1,2 g kanamycin sulfat, 1,34 g kanamycin acid sulfat tương đương với 1 g kanamycin base). 

Liều tiêm bắp và truyền tĩnh mạch thường dùng ở người lớn, trẻ em và trẻ sơ sinh với chức năng thận bình thường là 15 mg/kg mỗi ngày, chia làm 2 – 3 lần (cách 8 – 12 giờ/lần). Liều tối đa là 1,5 g/ ngày, Liều tiêm bắp có thể chia khoảng cách mỗi 6 giờ nếu nồng độ thuốc trong máu còn cao. Liều lượng cần tính toán dựa trên cân nặng và chức năng thận của bệnh nhân. Nếu có thể, cần điều chỉnh liều của kanamycin theo nồng độ thuốc trong máu để duy trì nồng độ tối ưu, đặc biệt là bệnh nhiễm khuẩn đe dọa tính mạng, nghi ngờ có độc tính, suy giảm chức năng thận hoặc có thể phải điều trị dài ngày. Điều chỉnh liều sao cho nồng độ đỉnh trong huyết tương (nồng độ sau khi tiêm 30 – 90 phút) không lớn hơn 35 microgam/ml, và nồng độ đáy (nồng độ ngay trước khi dùng liều tiếp theo) không lớn hơn 10 microgam/ml. 

Liều cho người bị lao: Với người lớn và trẻ em có chức năng thận bình thường, liều dùng là 15 – 20 mg/kg/ngày. Liều tối đa là 1 g/ngày và có thể dùng 1 lần/ngày. 

Người cao tuổi: Giảm liều và thận trọng như với người suy thận. 

Suy thận: Cần điều chỉnh liều theo mức độ suy thận của bệnh nhân. Nếu có thể, cần giám sát nồng độ kanamycin trong huyết thanh, đặc biệt ở bệnh nhân có chức năng thận thay đổi. Liều khởi đầu là 7,5 mg/kg theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Khoảng cách liều (theo giờ) tính bằng cách lấy nồng độ creatinin trạng thái ổn định trong huyết thanh (tính bằng mg/dl) nhân với 9. Ví dụ nồng độ creatinin là 2 mg/dl, liều khuyến cáo sẽ là 7,5 mg/kg mỗi 18 giờ (bằng 9 × 2). Lưu ý, các phương pháp tính liều không áp dụng cho bệnh nhân đang thẩm tách máu hoặc thẩm phân phúc mạc. Ở bệnh nhân suy thận đang thẩm tách máu, khuyến cáo bổ sung liều bằng 50 – 75% liều khởi đầu vào cuối mỗi kỳ thẩm tách máu. Ở bệnh nhân thẩm tách máu nên được giám sát nồng độ kanamycin huyết thanh. 

12 Tương tác thuốc 

Độc tính với thính giác và thận tăng lên nếu dùng kanamycin đồng thời hoặc nối tiếp với các thuốc có độc với thận, thần kinh và thính giác như kháng sinh nhóm aminoglycosid, Acyclovir, amphotericin B, Bacitracin, colistimethat/colistin, các Cephalosporin, Cisplatin, methoxyfluran, polymycin B, Vancomycin. Do vậy, tránh dùng đồng thời các thuốc này. 

Tránh dùng kết hợp kanamycin với các thuốc lợi niệu như furosemid vì có thể làm tăng độc tính với thận. 

Độc tính gây ức chế thần kinh cơ (khó thở và ức chế hô hấp) của kanamycin (đặc biệt là khi tiêm trong màng bụng) tăng lên khi dùng đồng thời với thuốc giãn cơ, thuốc mê như succinylcholin, Rocuronium, tubocurarin. Không nên dùng đồng thời kanamycin với các thuốc này, hoặc phải thận trọng khi dùng và theo dõi bệnh nhân cẩn thận, đặc biệt các dấu hiệu ức chế hô hấp. 

13 Tương kỵ 

Dung dịch kanamycin truyền tĩnh mạch tương kỵ với các thuốc sau: amphotericin B, các barbiturat, cefalotin natri, Clorpromazin, các chất điện giải (Ca2+, Mg2+, citrat hoặc phosphat), Heparin, hydrocortison, natri methicilin, methohexital, nitrofurantoin, Phenytoin, proclorperazin, sulfafurazol, clorpheniramin maleat, natri colistimethat. 

Khi tiêm, nhà sản xuất khuyến cáo không được pha trộn kanamycin với các kháng sinh beta-lactam do có thể xảy ra bất hoạt thuốc.

14 Quá liều và xử trí 

14.1 Triệu chứng

Chủ yếu là phản ứng phong bế thần kinh cơ gây khó thở, cần xử trí kịp thời. 

14.2 Xử trí

Có thể loại bỏ kanamycin ra khỏi máu bằng thẩm tách máu hoặc thẩm tách màng bụng. Trẻ sơ sinh có thể truyền thay máu. Thẩm tách máu với các trường hợp bị suy giảm chức năng thận. Không có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Dùng các thuốc kháng cholinesterase, muối calci và các biện pháp trợ giúp hô hấp như máy thở để hỗ trợ điều trị phong bế thần kinh cơ, hoặc yếu cơ kéo dài do dùng quá liều. 

Cập nhật lần cuối: 2019

Để lại một bình luận