Hạt Bông được biết đến là loại dược liệu có tác dụng làm ấm thận, làm thông ngực, thúc đẩy tuần hoàn máu và cầm máu, dùng cho các trường hợp yếu sinh lý,…Trong bài viết này, Thuốc Gia Đình xin gửi đến bạn đọc những thông tin chi tiết về loại dược liệu này.
1 Giới thiệu về Hạt Bông
Hạt bông là hạt của cây Bông. Hiện nay người ta đã khám phá ra rất nhiều loại cây bông trong đó có hạt của cây Malvaceae Gossypium herbaceum Linn., Gossypium hirsutum Linn., Gossypium barbadense Linn. và Gossypium arboreum Linn.
Bông có gia trị y học vô cùng phong phú, bao gồm hạt bông, bông gòn trên hạt bông, dầu béo chiết xuất từ hạt, vỏ ngoài vỏ bông, rễ hoặc vỏ rễ bông đều có thể dùng làm thuốc.
1.1 Đặc điểm thực vật
Bông cỏ: còn được gọi là bông Guzhong, Guzhongteng, Xiaomian và bông Ả Rập. Cây thảo sống hàng năm, dạng cây bụi, cao tới 1,5m, có lông thưa thưa thớt. Lá hình lòng bàn tay có 5 thùy, đường kính 5-10 cm, thường rộng hơn dài, thùy rộng, hình trứng, có thùy sâu không đến giữa phiến, đỉnh ngắn, nhọn, gốc hình trái tim, phần trên phủ lông dài hình sao, phần dưới phủ lông mịn. Lông nhung, có lông nhung dọc theo gân; cuống lá dài 2,5-8 cm, có lông nhung; lá kèm hình dải, dài 5-10 mm, càu nhàu. Hoa đơn độc ở nách lá, cuống dài 1-2 cm, có lông nhung; lá bắc rộng hình tam giác, dài 2-3 cm, rộng hơn dài, có 6-8 răng ở đỉnh, có lông thưa dọc theo gân lá; đài hoa hình chén, 5 thùy, hoa màu vàng, gốc trong màu tím, đường kính 5-7 cm. Quả nang hình bầu dục, dài khoảng 3 cm, có mỏ, thường có 3-4 ngăn, hạt to, dài khoảng 1 cm, riêng biệt, hình nón xiên, phủ lông bông dài màu trắng và lông bông ngắn. Thời kỳ ra hoa là tháng 7-9.
Bông vùng cao: còn gọi là bông lục địa, bông vùng cao, bông Mỹ, bông Mexico, bông Mỹ. Cây thảo hàng năm, cao 0,6-1,5m, cành có lông dài phủ thưa. Lá hình trứng rộng, đường kính 5-12 cm, chiều dài và chiều rộng gần bằng hoặc rộng hơn, hình trái tim hoặc cắt cụt ở gốc, thường có 3 thùy, hiếm khi có 5 thùy, và thường có thùy giữa. chia thùy sâu đến nửa lá, các thùy rộng hình tam giác và hình trứng, đỉnh nhọn, gốc rộng, mặt trên gần như không có lông, có lông thô dọc theo gân, phía dưới có lông nhung thưa thớt, cuống lá có 3 – Dài 14 cm, có lông thưa thưa, các lá kèm hình trứng-liếm, hình dạng dài 5-8 mm, rụng sớm. Hoa mọc đơn độc ở nách lá, cuống lá thường ngắn hơn cuống lá một chút, lá bắc có 3, cách nhau, ở gốc hình trái tim, có 1 tuyến, mép có 7-9 răng, các răng. dài 4 cm, rộng 2,5 cm, lông dài, có lông, đài hoa hình chén, 5 thùy, hình tam giác, có lông nhung, hoa màu trắng hoặc vàng nhạt, sau chuyển sang màu đỏ nhạt hoặc tím, dài 2,5-3 cm, cột nhị dài 1,2 cm. . Quả nang hình bầu dục, dài 3,5-5 cm, có mỏ và 3-4 tế bào, hạt tách rời, hình bầu dục, có lông bông dài màu trắng và lông bông ngắn màu trắng xám khó bong ra. Thời kỳ ra hoa là mùa hè và mùa thu.
Bông biển đảo: còn gọi là bông photoseed, bông kapok, bông hạt nhân. Cây bụi hoặc cây bụi lâu năm, cao 2-3 m, có lông hoặc gần như không có lông trừ cuống lá và gân lưng lá; cành non màu tím sẫm, có góc cạnh. Lá hình lòng bàn tay có 3-5 thùy sâu, đường kính 7-12 cm, thùy hình bầu dục hoặc thuôn dài, thùy sâu dài tới dưới giữa lá, đỉnh dài và nhọn, thùy giữa dài hơn, mặt bên thùy thường rộng, gốc hình trái tim; cuống lá dài hơn lá, rải rác các đốm đen; lá kèm có hình mác, hình liềm, dài khoảng 1 cm, thường rụng sớm. Hoa ở ngọn hoặc ở nách lá, cuống hoa thường ngắn hơn cuống lá, phủ lông nhung hình sao và các đốm tuyến màu đen; lá bắc có 5 lá bắc trở lên, tách rời, gốc hình trái tim, hình trứng rộng, dài 3,5-5 cm, có cạnh dài Răng thô 10-15 đài hoa hình chén, cụt, có các đốm tuyến màu đen; tràng hoa hình chuông, màu vàng nhạt, gốc trong màu tím, dài gấp 2-3 lần lá bắc, cánh hoa hình trứng ngược, khía khía, mặt ngoài phủ lông nhung như ngôi sao; nhị hoa nhẵn . Quả nang hình trứng thuôn dài, dài 3-5 cm, có đáy to, đỉnh nhọn, có các đốm tuyến rõ ràng ở mặt ngoài, thường có 3 ngăn, hiếm khi có 4 ngăn; hạt hình trứng, có mỏ, dài khoảng 8 mm, tách biệt với nhau, những bông gòn dài màu trắng dễ bong ra, sau khi bong ra bề mặt đen và mịn, chỉ có một lượng nhỏ bông gòn ngắn ở một hoặc cả hai đầu rất khó bong ra. Thời kỳ ra hoa là mùa hè và mùa thu.
Bông cây: còn gọi là bông gỗ, bông Ấn Độ, bông vừa, bông chân gà, bông giả, bông Á, bông gỗ. Cây bụi lâu năm thành cây bụi, cao 2-3m, cành non có lông nhung. Lá hình lòng bàn tay có 5 thùy sâu, đường kính 4-8 cm, thùy thuôn dài, có thùy sâu tới khoảng 1/2 phiến lá, mặt trên có lông thưa thưa, mặt dưới giống hình ngôi sao. lông mịn, lá dài dày dọc theo gân lá, có lông mu, cuống lá dài 2-4 cm, có lông tơ và có lông nhung, lá kèm hình dải, rụng lá. Hoa mọc đơn độc ở nách lá, cuống dài 1,5-2,5 cm, phủ lông tơ dài, lá bắc 3, hình tam giác, dài khoảng 2,5 cm, hợp sinh gần gốc 1/3, có 3-4 răng ở đầu. đỉnh, răng không dài, rộng hơn 3 lần, gân phủ lông nhung hình sao, đài hoa nông, hình chén, cụt ngược, hoa màu vàng nhạt, gốc trong màu tím đậm, cánh hoa hình trứng, dài 4-5 cm; nhị hoa dài 1,5-2 cm. Quả nang hình nón, thuôn nhọn ở đỉnh, thường rủ xuống, dài khoảng 3 cm, hình mỏ chim, thường có 3 ngăn, hiếm khi có 4-5 ngăn, nhẵn, có nhiều đốm mịn giống tuyến dầu, mỗi tế bào chứa 5-8 hạt. hạt riêng biệt, hình bầu dục, đường kính 5-8 mm, xen lẫn lông bông dài màu trắng và lông bông ngắn khó bong ra. Thời kỳ ra hoa là tháng sáu-tháng chín.
1.2 Đặc điểm phân bố và sinh trưởng
Cây bông cỏ: Nó được trồng ở Cam Túc, Tân Cương, Quảng Đông, Tứ Xuyên và Vân Nam ở Trung Quốc. Có nguồn gốc từ Ả Rập và Tiểu Á.
Bông nương: được trồng rộng rãi ở nhiều vùng trồng bông ở Trung Quốc. Có nguồn gốc từ Mỹ và Mexico.
Bông biển đảo: Được trồng ở Quảng Đông, Hải Nam, Quảng Tây và Vân Nam. Có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ và Tây Ấn.
1.3 Đặc điểm dược liệu
Hạt có hình trứng, dài khoảng 1 cm, đường kính 0,5 cm. Lớp lông bên ngoài có hai lớp len trắng, một lớp lông bông dài và một lớp lông tơ ngắn, một số ít chỉ có một lớp lông bông dài. Kết cấu dẻo, sau khi nghiền, hạt có màu vàng nâu và nhiều dầu. Nó có mùi thơm dầu và vị hơi hăng.
1.4 Thu hái và chế biến
Sau khi thu hái hạt bông sẽ được lấy dầu bằng cách ép ở nhiệt độ cao để loại bỏ Gossypola. Khi dùng trong chế biến làm thuốc
2 Thành phần hóa học
Bông là một loại sợi thực vật, là sợi xenlulo, có thành phần hóa học bao gồm các phân tử xenlulo, chứa các nguyên tố cacbon, hydro và oxy, là một polyme Glucose đa vòng, xenlulo chiếm khoảng 94% trọng lượng của chất xơ khô. Các thành phần còn lại được gọi là đồng hành cellulose. Cellulose 93,87%, pentosan 1,52%, hàm lượng nitơ 0,87%, sáp, chất béo 0,63%, chất tan trong nước 3,30%, tro 1,12%.
Hạt chứa gossypol, gossypru-purin, một lượng nhỏ 6-methoxygossypol, 6, 6′-dimethoxygossypol (6, 6′-dimethoxygossypol). Thành phần axit béo của dầu là axit palmitic, axit oleic, axit linoleic và axit stearic.
3 Công dụng của Hạt Bông theo Y học cổ truyền
Hạt bông có vị cay nồng, tính nóng.
Quy kinh: Gan, thận, lá lách
Công dụng của hạt bông là làm ấm thận, bổ sung lượng chất thiếu hụt và cầm máu. Trên lâm sàng, nước sắc hạt bông có thể dùng bằng đường uống, hoặc làm thành viên, bột hoặc nước đun sôi để xông hơi nhằm chữa các bệnh liên quan đến cơ thể. Nó cũng có hiệu quả đối với rối loạn chức năng tình dục nam giới.
Hạt bông cũng có thể được sử dụng để điều trị các bệnh ở phụ nữ như chảy máu tử cung ở phụ nữ và bệnh bạch cầu, đây là phạm vi điều trị. Hạt bông có thể dùng kết hợp với các thuốc khác để điều trị tiết sữa và đái dầm ở trẻ em trong thời kỳ cho con bú.
4 Bài thuốc cổ truyền từ hạt bông
4.1 Chữa bệnh bạch cầu và đái dầm ở trẻ em.
Dùng đường uống: sắc, uống từ 2 đến 4 lần, hoặc uống thành viên hoặc bột.
Dùng ngoài: đun sôi trong nước, xông hơi và rửa sạch.
4.2 Chữa yếu cơ, đầu gối
Hạt bông 9-15g, bẻ thành từng miếng sắc lấy nước, cũng có thể kết hợp với dâu tằm,…
4.3 Chữa thiếu sữa
Hạt bông 9g. Cắt thành từng miếng, thêm 2 thìa rượu gạo, lượng nước thích hợp, sắc lấy nước sắc. (“Thuốc thảo dược Trung Quốc thường được sử dụng ở Thượng Hải”)
4.4 Chữa đau bụng lạnh
Rang hạt bông mới có màu vàng và đen, xay thành bột. Ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 6g, pha với nước Gừng loãng hoặc nước đun sôi để ấm.
4.5 Chữa đau lưng do thấp khớp
Hạt bông 1000g, một ít muối. Hạt bông xào chín, thêm một ít nước muối, dùng vải quấn lại rồi chườm lên vùng đau ở thắt lưng.
5 Tài liệu tham khảo
Tác giả Shanmukh S Salimath và cộng sự, ngày đăng báo tháng 6 năm 2021. Production of tocotrienols in seeds of cotton (Gossypium hirsutum L.) enhances oxidative stability and offers nutraceutical potential, pmc. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2023.